Watch the latest videos on YouTube.com
Custom Search

Wednesday, November 12, 2008

Brazin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc sẽ là những quốc gia thống soái nền kinh tế thế giới?

Sau 20 -30 năm, các quốc gia Brazin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc (viết tắt là BRIC - Brazin, Russia, India, China) sẽ giàu có hơn Hoa Kỳ và châu Âu – có thể là ở mức thu nhập đầu người. Giáo sư Robin Matthews của Trường kinh doanh Kingston University đã đưa ra dự đoán như vậy về tương lai của các quốc gia mới nổi này. Theo giáo sư Robin Matthews, bất cứ dự báo nào cũng bao hàm nhiều yếu tố khó định đoán khi sự mong đợi không trở thành hiện thực. Hai yếu tố chủ chốt đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của nên kinh tế - đó chính là nguồn nhân lực và nguồn vốn tài chính. Dưới đây là bài trả lời phỏng vấn của Robin Matthews với tạp chí My Biz.

xu-huong-kinh-te-toan-cau.jpg

Các xu hướng nào trong nền kinh tế đóng vai trò chủ chốt trong dự báo của ông, thưa giáo sư?

Trong những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu phát triển ổn định với mức tăng trưởng trung bình 4%/năm. Lực lượng lao động trên thế giới từ 2000-2008 đã tăng lên gấp đôi. Liệu điều này có ảnh hưởng như thế nào đến sự tăng trưởng kinh tế? Ở châu Á, hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị đã trở nên phổ biến. Và hậu quả là, mức thu nhập tại các nước đang phát triển tăng lên. Cũng vì thế mà xảy ra hiện tượng giảm thu nhập tại các quốc gia đã phát triển. Thông thường, khi rơi vào cảnh nợ nần, người dân Mỹ làm giảm giá trị đồng tiền của quốc gia mình. Hiện nay, mức nợ của Mỹ đã cao hơn khoản nợ của tất cả các quốc gia khác. Giờ đây, không phải là các quốc gia giàu có hỗ trợ các quốc gia nghèo hơn mà ngược lại, các quốc gia nghèo hơn hỗ trợ các quốc gia giàu.

Hiện tại, gần 60% dân số thế giới – ở đây tôi muốn nói về Hoa Kỳ - sử dụng 25% nguồn lực thế giới. Tôi cho rằng, tình trạng này sẽ không thể kéo dài bền vững được. Tuy nhiên, hệ thống chính trị Hoa Kỳ từ 1995 đến nay đều chỉ hướng đến nhiệm vụ bảo vệ và giữ gì vị thế của mình. Cuộc chiến ở Irắc đã minh chứng cho điều đó. Có thể, Mỹ còn kịp triển khai một cuộc chiến tranh nữa trước khi Tổng thống Bush kết thúc nhiệm kỳ. Trong một triển vọng lâu dài, kiểu gì cũng cần có sự phân bổ lại thu nhập của các quốc gia giàu cho các quốc gia nghèo hơn.

Vậy dựa vào đâu mà giáo sư lại có thể cho rằng, Beazin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc sẽ là những quốc gia giàu nhất thế giới?

Dự đoán của tôi dựa trên các dữ liệu thu thập được từ một loạt nghiên cứu và các dữ liệu này cho thấy rằng, các quốc gia BRIC này sẽ trở thành các cường quốc của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, vấn đề lớn cho các quốc gia này là việc tạo ra môi trường pháp lý hiệu quả, cần thiết cho nền kinh tế thị trường. Và dĩ nhiên, mỗi một quốc gia sẽ phát triển theo cách của mình chứ không giống nhau. Và con đường phát triển của các nước này cũng chẳng có điểm gì chung với Mỹ hay châu Âu. Và chúng ta sẽ nhận thấy các quốc gia này chính là những quốc gia có nền kinh tế thị trường vững mạnh – nói tóm lại là một hệ htống tư bản mới. Các quốc gia BRIC không cần sao chép kinh nghiệm của các quốc gia Tây Âu mà phát triển dựa trên lịch sử của chính dân tộc mình.

30 năm – một khoảng thời gian khá lớn để chiêm nghiệm dự đoán của giáo sư. Làm thế nào để dự đoán được sự tăng trưởng kinh tế trong một viễn cảnh xa xôi như vậy?

Các yếu tố cần và đủ cho sự phát triển kinh tế chính là lực lượng lao động và nguồn vốn. Các nhà kinh tế học vẫn xây dựng mô hình tương lai dựa trên hai yếu tố này. Các quốc gia BRIC cần giải quyết nhiều vấn đề quan trọng nhưng phức tạp: giáp dục, hệ thống luật pháp, ngân hàng, môi trường chính trị, cần tạo ra một hệ thống thuế cởi mở để khuyến khích người dân có ý thức đóng thuế đồng thời tạo ra hệ thống an sinh tốt nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động nhưng không làm mất đi động cơ làm việc của người dân.

Theo đơn đặt hàng của BT Global Services, bộ phận phân tích của tờ The Economist đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về các nguy cơ rủi ro trong kinh doanh trong vòng mười năm tới. 600 top manager của các công ty trong nhiều lĩnh vực khác nhau trên thế giới đã tham gia vào cuộc nghiên cứu này.

Dưới đây là 12 nguy cơ rủi ro đối với việc kinh doanh trên toàn cầu:

1. Sự hạn chế toàn cầu hóa
2. Giá dầu tăng đột biến
3. Giá tài sản giảm xuống
4. Xuất hiện mô hình kinh doanh phá hoại
5. Khủng bố quốc tế
6. Sự thay đổi đột ngột về hệ thống pháp lý
7. Suy thoái kinh tế trên toàn thế giới
8. Tình hình bất ổn ở khu vực Cận Đông
9. Gia tăng mức độ cạnh tranh từ các công ty của những thị trường đang nổi
10. Thiếu nhân sự lành nghề
11. Sự thay đổi khí hậu
12. Mức độ ô nhiễm công nghiệp

Giáo sư có thể nêu ra một ví dụ về chế độ như vậy không?

Thật đáng tiếc là tại các quốc gia đã phát triển, người ta cũng chưa thật quan tâm đúng mức đến sự bình đẳng trong xã hội, vì thế dẫn đến sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo. Tôi cũng không thật rõ lắm tình trạng của tầng lớp trung lưu tại Mỹ, nhưng tôi biết tình trạng này đang diễn ra tại châu Âu ra sao. Đại diện cho tầng lớp trung lưu – những người có cuộc sống không đến nỗi tệ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến thập niên 80 – giờ đây đang phải đối mặt với không ít khó khăn. Giờ đây, họ không được đảm bảo công ăn việc làm do hiện tượng di dân đang diễn ra ồ ạt. Họ phải trả nhiều khoản thuế. Chi phí y tế tăng lên cũng là một vấn đề đau đầu đối với lớp người này. Nói tóm lại, họ đang phải đối mặt với nhiều vấn đề trong một xã hội không ngừng phát triển.

Giáo dục kinh doanh phải gắn liền với thực tế

Theo giáo sư, đào tạo MBA cần phải như thế nào để hiệu quả?

Tôi có nhiều học viên theo học khóa MBA khi đã có công ăn việc làm và 3-4 năm kinh nghiệm làm việc. Giờ đây, do nhu cầu tăng nên các trường đào tạo MBA mọc lên như nấm. Tuy nhiên, chất lượng giảng dạy thì không phải lúc nào cũng tương xứng với nhu cầu của học viên. Giờ đây, người đi học đòi hỏi chương trình giảng dạy phải gắn liền với thực tế. Nói đúng ra, các sinh viên theo học MBA phải giống như các bác sĩ thực tập tại các bệnh viện. Họ phải được áp dụng các kiến thức lý thuyết vào thực hành. Tôi cho rằng, việc đào tạo MBA phải đi theo cách thức này.

Cũng cần thừa nhận rằng, các nhà tuyển dụng giờ đây không còn mặn mà với các ứng viên có bằng cấp MBA trong khi không có kinh nghiệm làm việc. Đương nhiên, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt hiện nay, nhà tuyển dụng phải cân nhắc khi trả một mức lương cao cho ứng viên trong khi kinh nghiệm làm việc của ứng viên lại không tương xứng.

Cách tiếp cận đối với đào tạo MBA thay đổi 30-40 năm/một lần. Khi các trường đào tạo MBA xuất hiện lần đầu tiên, đối tượng chính là các nhà quản lý đã từng có kinh gnhiệm làm việc. Muộn hơn một chút, thập niên 70-80, các khóa học thiên về lý thuyết hàn lâm hơn, dù học viên có cơ hội tiếp xúc với các tình huống kinh doanh thực tế. Giờ đây, một cuộc cách mạng trong lĩnh vực giảng dạy và đào tạo MBA đang thực sự diễn ra. Các trường đào tạo MBA như McGill và INSEAD đang ngày càng tỏ ra hấp dẫn học viên hơn do biết cách kết hợp giữa kiến thức/kỹ năng thực tế và khả năng phân tích, ví dụ, khả năng đàm phán, thuyết phục và tạo động cơ làm việc cho nhân viên – điều mà trước đây vẫn thường được gọi là các “kỹ năng mềm” trong kinh doanh. Và đó là một sai lầm tai hại.

Hiện nay, tôi và các đồng nghiệp của mình đang soạn thảo ra các chương trình giảng dạy có kết hợp lý htuyết và kiến thức thực tế. Chúng tôi đã thử nhiệm bằng cách đưa ra các bài tập tình huống trong nhiều lĩnh vực: tài chính, kế tóan, kinh tế, chiến lược, nhân sự…Mỗi một môn sẽ là một giáo viên riêng biệt phụ trách. Mỗi một vấn đề sẽ không còn mang tính chuyên biệt nữa mà là sự tổng hợp nhiều vấn đề. Cách thức đào tạo này buộc học viên phải năng động hơn, có kiến thức bao quát hơn. Đối tượng đào tạo chính của tôi không phải là các sinh viên mới tốt nghiệp đại học mà là các nhà quản lý với 10-15 năm kinh nghiệm làm việc.

Robin Matthews hiện là giáo sư giảng dạy môn Quản trị chiến lược, kinh tế thế giới và môi trường trong kinh doanh, là chuyên gia tư vấn của các hãng BP, CBI, CAA, Brown & Root, Costain Plc, British Telecom, OPEC…

Nam Khánh dịch từ MyBiz - BwPortal VN

No comments:

Swiky Search Tool

 
Watch the latest videos on YouTube.com